Diễn biến Cuộc nổi dậy của Ninh vương

Ninh vương khởi binh

Minh Vũ Tông Chính Đức Hoàng đế (1491 - 1521)

Năm Chính Đức thứ 14 (1519), Thái giam Trương Trung, Ngự sử Tiêu Hoài cùng cáo phát những việc làm của Ninh vương. Theo lời Đại học sĩ Dương Đình Hòa, Chính Đức Đế sai người mang thánh chỉ lệnh giải giáp binh sĩ hộ vệ, lệnh Thần Hào trả lại ruộng đất đã chiếm của người dân[3][11]. Biết không thể che giấu triều đình được nữa, Ninh vương quyết chí khởi binh tạo phản vào ngày 10 tháng 7 (tức 14 tháng 6 theo ÂL). Ông ta tuyên bố Chính Đức Đế chỉ là một đứa bé không rõ lai lịch, không phải là Phượng Tử Long Tôn, mà năm xưa Hoằng Trị Đế lỡ nghe theo lời Lý Nghiễm mà đón vào cung nuôi mà gây ra sai lầm, nay mình nhận được mật chỉ của Thái hậu bảo vào triều giám quốc, diệt trừ gian thần[12]. Tuần phủ Giang Tây Tôn Toại và Án sát sứ Hứa Quỳ đòi đưa mật chỉ ra, Thần Hào không trả lời được. Tôn Toại mắng Thần Hào là kẻ nghịch thần và sau đó bị xử tử cùng với những quan viên trung thành khác[13][14]. Chu Thần Hào tuyên bố bác bỏ niên hiệu Chính Đức, tập trung binh lực xưng là 10 vạn người, phát truyền hịch chỉ trích triều đình ra khắp nơi[13]. Rồi dẫn binh công chiếm Nam Khang, Cửu Giang; quan viên các nơi này đều nhanh chóng bỏ thành mà chạy. Thần Hào hừng hực khí thế chuẩn bị tiến vào Nam Kinh để làm bàn đạp đánh lên phía bắc[15].

Vương Thủ Nhân bình loạn

Nhà đại Nho thời Minh Vương Thủ Nhân (1472-1528), hay Vương Dương Minh sau khi lập công bình định Ninh vương được tấn phong Tân Kiến bá, dưới triều Long Khánh truy phong tước Hầu.

Tin tức biến loạn đến chỗ của Tuần phủ Nam Cám, Thiêm Đô ngự sử Viện Vương Thủ Nhân và Tri phủ Cát An Ngũ Văn Định. Hai ông liền truyền hịch đến các quận huyện, hưởng ứng Cần vương[16]. Vương Thủ Nhân dùng kế đánh lừa Chu Thần Hào, ông làm giả mật chỉ điều động binh lính từ Bắc Kinh nam hạ, cố tình để cho Ninh vương bắt được mật chỉ đó, làm nội bộ quân Ninh hoang mang vì tưởng rằng quân triều đình đã biết trước mọi hành động của mình và chuẩn bị trước hết rồi. Thần Hào lo sợ do dự không dám tiến nữa, quân triều đình nhân thời gian đó củng cố binh lực[15]. Quân triều đình chia nhau phản công: Hứa Thái, Tức Vĩnh phân 4 vạn quân tiến từ Phượng Dương; Lưu Huy, Quới Dụng đem 4 vạn quân tiến từ Hoài Thủy. Vương Thủ Nhân dẫn quân 2 vạn, bọn Dương Đán dẫn quân 8 vạn, bọn Trần Kim lĩnh binh 6 vạn chia đường mà tiến, cùng nhau giáp công Nam Xương. Mặt khác, để làm chia rẽ nội bộ Thần Hào, Vương Thủ Nhân làm tờ trình về nói nhận được mật thư xin hàng và làm nội ứng của mưu sĩ của Thần Hào là bọn Lý Sĩ Thực, Lưu Dưỡng Chánh đồng thời lại viết những bức thư trả lời dặn dò cách xử sự ra sao nhằm chia rẽ nội bộ quân phản loạn.

Sau khi phát hiện mình bị trúng kế, Chu Thần Hào tức giận, để Chúc Tông ChiVạn Duệ giữ 1 vạn binh thủ Nam Xương, sai người dụ hàng An Khánh, Cát An nhưng không được; bèn đích thân dẫn 6 vạn quân tấn công An Khánh[17] (23 tháng 7), nói phao là 10 vạn quân. Ninh vương lấy Lưu Cát làm Giám quân, Vương Quân Tham tán quân vụ, Chỉ huy Cát Giang làm Ngụy Đô đốc, phân quân ra 5 nhóm, 140 đội phân. Tri phủ An Khánh là Trương Văn Cấm và Đô chỉ huy Dương Duệ, Chỉ huy sứ Thôi Văn cùng nhau chống giữ thành trì, cản bước tiến của quân Ninh[15].

Vương Thủ Nhân nhận thấy hậu phương của quân Ninh bỏ trống, nên vào ngày 13 tháng 8 (20 tháng 7 ÂL) liền dẫn quân thẳng đến Nam Xương. Nhận được tin báo, Ninh vương do dự không biết quyết định ra sao, có mưu sĩ khuyên ông ta bỏ Nam Xương mà đánh thẳng Nam Kinh, tuy nhiên Ninh vương lại quyết định quay về cứu Nam Xương. Vương Thủ Nhân lập tức bố trí quân mai phục ở Hồ Bà Dương, chuẩn bị quyết chiến với phản quân.

Ngày 18 tháng 8, hai quân giao chiến ở Hoàng Gia Độ, quân triều đình giả thua bỏ chạy về phía bắc, tiên phong của quân Ninh vội vàng truy kích không đợi hậu quân tiếp ứng, nên khi gặp phải quân Minh mai phục, thì không thể nào chống nổi, phải lui về Bảo Bát Tự[13]. Ninh vương thấy hình thế bất lợi, điều quân Cửu Giang và Nam Khang tăng viện, lại hậu thưởng dũng sĩ, ý đồ đánh một trận sống chết. Ở lần giao chiến thứ hai trên hồ, Vương Thủ NhânNgũ Văn Định bắt được hơn 2000 phản quân, còn số tử trận nhiều vô kể; phó hạm của Chu Thần Hào cũng bị đại pháo bắn hạ[15]. Ninh vương bại liền hai trận, phải lui về thuyền. Rạng sáng sớm ngày 20 tháng 8, Vương Thủ Nhân sai dùng những mũi tên lửa bắn vào hạm đội thuyền của quân Ninh, lửa theo chiều gió mà đốt cháy chiến hạm[18]. Theo ước tính của Vương Thủ Nhân, thì quân Ninh phiên bị giết hoặc nhảy xuống nước chết đuối là hơn 3 vạn người, số bị bắt sống là 3000, trong đó có cả đám thê thiếp của Chu Thần Hào. Cha con Chu Thần Hào cùng bọn Lý Sĩ Thực, Lưu Dưỡng Chánh, Vương Luân cũng bị bắt, đám tàn quân bị tiêu diệt hoàn toàn vào hai ngày sau đó[19]. Loạn Ninh vương kết thúc, trước sau chỉ được có 43 ngày[3].

Chính Đức thân chinh

Tin tức Ninh vương khởi loạn truyền đến Bắc Kinh vào ngày 7 tháng 8, Minh Vũ Tông Chính Đức Đế trong một hành động kì quặc hiếm có trong lịch sử, đã tự phong cho mình là Phụng thiên chinh thảo Uy Vũ Đại tướng quân Trấn quốc công, dẫn quân nam hạ thân chinh. Ngày 15 tháng 9, khi Uy Vũ Đại tướng quân tới Trác Châu[20] thì được tin Thần Hào đã bị bắt, và Vương Thủ Nhân cũng thỉnh cầu Chính Đức đưa đại binh về vì sợ bọn giặc cướp và dư đảng của Thần Hào sẽ thừa cơ ám sát nhà vua[21]. Chính Đức tuy nhiên không nghe theo, vẫn cứ tiếp tục cuộc nam chinh của mình[22]. Bấy giờ có người như Trương Tung, Giang Bân muốn lấy lòng Chính Đức Đế mà kiến nghị thả Chu Thần Hào ra hồ Bà Dương, rồi Hoàng đế sẽ tự đem quân đến bắt lại, để tỏ rõ uy thế của mình[13], nhưng Hoàng đế cuối cùng không làm như vậy.

Tháng 1 năm 1520, Chu Thần Hào bị áp giải đến Nam Kinh. Tất cả đồng minh của ông ta, bao gồm cả Tiền NinhLục Hoàn, đều bị xử lăng trì, nhưng Thần Hào vì cớ là Hoàng thân quốc thích nên chỉ bị giam lại chứ chưa giết.

Chính Đức vì mải mê du ngoạn Giang Nam, vào tháng 9 năm đó trong một lần du thuyền lúc say rượu đã bị ngã xuống nước, rất may binh lính cứu được; tuy nhiên sức khỏe bị tổn hại trầm trọng, mới hạ lệnh ban sư về triều. Ngày 13 tháng 1 năm 1521, Hoàng đế tại Thông Châu hạ lệnh cho Chu Thần Hào phải tự tử, đốt đi thi thể của hắn đồng thời phế trừ Ninh phiên.[23][24]. Chỉ ba tháng sau đó, Chính Đức Hoàng đế băng hà ở Báo phòng, không có con trai kế vị[25].